Đánh giá sinh thái, quần thể, nhân tố tác động và cơ sở để bảo tồn loài Tắc kè Cảnh (Gekko canhi) tại Việt Nam

23/11/2023
Một trong những nguyên nhân mà 96% các loài bò sát trên thế giới không được bảo vệ bởi các biện pháp bảo tồn là do thiếu những thông tin sinh học cơ bản về loài. Loài Tắc kè cảnh (Gekko canhi) chỉ được biết đến với duy nhất công bố mô tả về loài. Được ghi nhận phân bố cùng sinh cảnh với loài cực kỳ nguy cấp Thạch sùng mí hữu liên, Tắc kè cảnh được dựa đoán là cũng sẽ chịu tác động mạnh từ hoạt động của con người. Nhóm các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu hệ Gen, Viện Sinh thái và Tài Nguyên Sinh vật phối hợp với Vườn thú Cologne, Đức đã thực hiện một nghiên cứu đánh giá toàn diện về sinh thái, quần thể, nhân tố tác động đến loài, từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn loài Tắc kè cảnh.

Tắc kè cảnh – Gekko canhi được phát hiện và mô tả lần đầu tiên tại Khu bảo tồn Thiên nhiên Hữu Liên (KBTTT Hữu Liên), Lạng Sơn và Sapa, Lào Cai, vào năm 2010 trên tạp chí Zootaxa. Loài được đặt theo tên của PGS.TS. Lê Xuân Cảnh – Nguyên Viện trưởng Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật. Tuy nhiên, từ khi công bố tới thời điểm hiện tại, chưa ghi nhận thêm bất kể nghiên cứu nào về loài. Sự lãng quên với những hiểu biết khoa học về loài là lý do khiến các nhà bảo tồn tại Việt Nam đặt ra câu hỏi rằng liệu loài đặc hữu này có thực sự nguy cấp và cần được bảo vệ.


Sinh cảnh và các cả thể loài Tắc kè cảnh – Gekko canhi

Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát thực địa trong ba tháng tại KBTTN Hữu Liên, ghi nhận 95 cá thể Tắc kè cảnh, trong đó tháng 10 ghi nhận nhiều nhất với 56 cá thể, tháng 5 ghi nhận với 31 cá thể và tháng 7 với chỉ 8 cá thể. Mật độ quần thể được ước tính biến thiên giữa các tháng khảo sát. Trong đó, tháng 10 ghi nhận với mật độ quần thể cao nhất với trung bình 9,6 cá thể/km/ngày và 6,1 cá thể/km2/ngày. Nghiên cứu về cấu trúc quần thể, con đực trưởng thành ghi nhận nhiều nhất trong tháng 5 (48,4%), con non và con cái trưởng thành ghi nhận nhiều trong tháng 7 (37.5%) và con cái trưởng thành trong tháng 7 (55.4%).


Cấu trúc giới tính và nhóm tuổi của loài Tắc kè cảnh theo các tháng khảo sát

Loài được ghi nhận ở KBTTN Hữu Liên trong dải độ cao từ 150 đến 342 m so với mực nước biển. Nhiệt độ không khí ghi nhận tại các thời điểm hoạt động của loài trong ban đêm dao động từ 18,6 – 27,80C. Nhiệt độ cơ thể của loài được đo đạc ngoài tự nhiên trong khoảng từ 18,9 – 28,80C. Loài thường bám trên các vách đá và trên cách cành cây có độ cao trung bình so với mặt đất khoảng 1,21 m (0,2 – 3,0 m), với độ che phủ trung bình cao khoảng 76%.


Phân tích về đặc điểm sinh thái và sinh cảnh sống ngoài tự nhiên của loài Tắc kè cảnh

Phân bố cùng sinh cảnh với loài cực kỳ nguy cấp Thạch sùng mí hữu liên, nên loài Tắc kè cảnh cũng được dự đoán là sẽ chịu tác động mạnh của hoạt động con người. Cụ thể, qua quan sát trực tiếp và phỏng vấn người dân địa phương, nhóm nghiên cứu ghi nhận một số hoạt động làm suy giảm chất lượng và phá hủy sinh cảnh sống của loài Tắc kè cảnh. Trong đó có hoạt động xây dựng đường, đá lở, khai thác đá sản xuất xi măng, phá rừng trồng nương rẫy được ghi nhân tại sinh cảnh phân bố của loài. Loài Tắc kè cảnh cũng được dự báo là sẽ chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu trong tương lai do cùng môi trường sống với loài Thạch sùng mí hữu liên.


Nhân tố tác động làm suy giảm và phá hủy sinh cảnh sống của loài Tắc kè cảnh

Trên cơ sở nghiên cứu và điều tra cơ bản về sinh thái, quần thể, đánh giá nhân tố tác động, nhóm nghiên cứu đề xuất cần cấp thiết thực hiện các biện pháp bảo tồn quần thể loài Tắc kè cảnh và sinh cảnh trước khi loài tuyệt chủng trước những tác động của hoạt động con người như: Phối hợp với chính quyền địa phương và cán bộ kiểm lâm tăng cường công tác tuần tra bảo vệ rừng, bảo vệ sinh cảnh núi đá vôi; kiểm tra và xử phạt với những trường hợp săn bắt động vật trái phép, chặt phá rừng trong khu vực cấm khai thác; tập huấn giám sát và tuần tra cho các cán bộ kiểm lâm; thực hiện các chương trình giáo dục cộng đồng trong địa phương nhằm nâng cao hiểu biết về giá trị của việc bảo vệ đa dạng sinh mạng lại.


Links các bài báo liên quan:

Nguồn tin: TS. Ngô Ngọc Hải, Viện Nghiên cứu hệ Gen
Xử lý tin: Minh Tâm

 

 



Tags:
Tin liên quan